Cách điều trị ung thư vòm họng hiệu quả

Cách điều trị ung thư vòm họng hiệu quả

Nguyên tắc chung trong điều trị ung thư vòm họng Việc quyết định phương án điều trị dựa trên nhiều yếu tố, bao gồm: giai đoạn bệnh, týp mô bệnh học, thể trạng chung của người bệnh. 1 Xạ trị là phương pháp cơ bản, hóa chất và một số phương pháp khác có vai trò bổ trợ trong điều trị UTVMH. Tuy nhiên, xu hướng hiện nay là điều trị phối hợp nhiều phương pháp, trong đó phối hợp hóa - xạ trị đồng thời mang lại kết quả tốt rõ rệt, nhất là với các ung thư ở giai đoạn toàn phát.  Ngoài những nguyên tắc cơ bản kể trên thì việc chuẩn bị bệnh nhân cũng vô cùng quan trọng. Điều trị ung thư là một điều trị nặng nề, do vậy bệnh nhân cần có một sức khỏe đảm bảo trước các liệu trình điều trị để việc điều trị có thể đạt kết quả tốt nhất.  Về chế độ dinh dưỡng: cho bệnh nhân các chế độ ăn đặc biệt, nhiều dinh dưỡng, khẩu phần cân đối. Điều trị các bệnh răng miệng và chăm sóc răng miệng trong quá trình điều trị. Chuẩn bị tốt dụng cụ Cố định bệnh nhân để tiến hành xạ trị, tốt nhất dùng mặt nạ nhựa plastic chuyên dụng.  Phương pháp điều trị  Xạ trị: xạ trị chiếu ngoài bằng máy gia tốc thẳng theo kỹ thuật thông thường (3D conformal). Nếu có phần mềm chuyên dụng thì tốt nhất nên xạ theo kỹ thuật điều biến liều (Intensity - modulated radiation therapy: IRMT) nhằm giảm thiểu các biến chứng của bức xạ. Liều xạ chỉ định theo giai đoạn bệnh. Trung bình liều vào u nguyên phát, hạch phát hiện trên lâm sàng và phim CT là 65 - 70 Gy, phân liều 2 Gy/ngày, trải liều 6 - 7 tuần. Liều dự phòng vào hạch cổ đạt 50 Gy. Hiện nay, xu hướng phối hợp hóa - xạ trị đồng thời đã góp phần làm giảm một phần liều xa nhưng vẫn đạt hiệu quả điều trị. Ở đây, hóa chất được coi như một yếu tố làm tăng nhạy cảm của tổ chức ung thư với xạ trị.  Hóa trị: chỉ định phối hợp đồng thời với xạ trị hoặc bố trợ sau xạ trị cho các giai đoạn III, IV, TNT, N, và một số di căn, tái phát tại chỗ của loại ung thư. Với những trường hợp ung thư vòm mũi họng biểu mô vẩy, không có đột biến gien KRAS ở giai đoạn III, IV có thể phối hợp với thuốc điều trị đích Cetuximab liều 400mg/m2/tuần đầu tiên, sau đó liều 250mg/m2/các tuần tiếp theo, trong 6 tuần.  Phẫu thuật: được chỉ định để lấy hạch cổ làm chẩn đoán gián tiếp hoặc lấy hạch còn lại sau xạ trị.  Trong trường hợp bệnh nhân có di căn xương, cần điều trị phối hợp với thuốc chống hủy xương, thuốc phóng xạ (P-32...) giảm đau, xạ trị giảm đau xương.  Trong trường hợp bệnh nhân có di căn não, cần điều trị phối hợp với thuốc chống phù não, xạ trị toàn não hoặc xạ phẫu bằng dao gamma quay.  Tiên lượng Tỉ lệ sống thêm 5 năm sau điều trị đạt 80 - 90% ở giai đoạn I và II, 30 - 40% ở giai đoạn III, 15% ở giai đoạn IV. Tuy nhiên, 90 - 97% bệnh nhân ở Việt Nam phát hiện bệnh giai đoạn III và IV.  Các biện pháp phòng ngừa ung thư vòm họng Hạn chế ăn uống các thực phẩm lên men như: rượu, bia, cá muối, dưa khú, nước mắm có chứa nhiều chất Nitrosamin có liên quan đến một số loại ung thư của đường tiêu hoá và UTVMH.  Có chế độ dinh dưỡng hợp lý, ăn nhiều ra và hoa quả tươi.  Cân thăm khám nội soi tai mũi họng khi có các triệu chứng ngạt mũi, ù tai, nổi hạch cổ một bên tăng dân đế được phát hiện sớm và điều trị kịp thời. Đặc biệt, ở những người trong gia đình có bố mẹ, anh chị em ruột bị ung thư cần khám sức khỏe định
Những điều cần biết về ung thư vòm họng

Những điều cần biết về ung thư vòm họng

Tổng quan về ung thư vòm họng Ung thư vòm mũi họng (Nasophanyngeal Carcinoma - NPC) là bệnh lý ác tính các tế bào niêm mạc và dưới niêm mạc vùng vòm mũi họng. Bệnh đứng đầu trong các ung thư vùng đầu cổ và hàng thứ 5 trong các bệnh ung thư nói chung. Ung thư vòm mũi họng (UTVMH) có tiên lượng tốt nếu được phát hiện sớm, điều trị đúng và kịp thời. Tuy nhiên, ngay cả ở giai đoạn muộn thì việc điều trị cũng đưa lại kết quả khả quan trong việc nâng cao chất lượng và kéo dài thời gian sống ở người bệnh. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi nhưng đỉnh cao ở khoảng 40 - 60 tuổi. Trên thế giới hình thành ba khu vực địa lý, ở đó tỉ lệ mắc bệnh hoàn toàn khác nhau: Khu vực có nguy cơ mắc cao: bao gồm miền Nam - Trung Quốc và các nước vùng Đông nam châu Á. Khu vực có nguy cơ trung bình và ngày càng có xu hướng tăng lên: bao gồm các nước ở vùng Bắc Phi. . Khu vực có nguy cơ thấp: bao gồm các nước châu  u, châu Mỹ. Nguyên nhân dẫn đến ung thư vòm họng Nguyên nhân gây ra UTVMH cho tới nay chưa được xác định rõ ràng. Tuy vậy có rất nhiều giả thiết:  Vi-rút  Qua nhiều nghiên cứu thấy, bệnh này có liên quan đến vi rút Epstein - Bar (EBV). Xét nghiệm kháng thể chống vi-rút EBV cao ở một số bệnh nhân UTVMH loại biểu mô không biệt hoá. EBV là nguyên nhân gây UT vòm họng  Yếu tố di truyền  Nhiều trường hợp UTVMH được phát hiện trong một gia đình. Tỉ lệ tăng cao của kháng nguyên HLA-A2 ở vị trí  thứ nhất và sự thiếu hụt ở vị trí thứ hai của kháng nguyên HLA-Bw46 hình như tạo điều kiện thuận lợi cho sự xuất hiện UTVMH.  Môi trường  Kiều dân Trung Quốc di tản sang Mỹ ít bị UTVMH hơn trong nước làm cho người ta nghĩ tới vai trò của môi trường tác động vào bệnh này. Tổn thương chức năng tế bào lympho T kèm theo nhiễm EBV mạn tính là hai yếu tố nguy cơ cao đã được xác định.  Thức ăn và cách chế biến  Thức ăn chế biến qua các khâu lên men như: rượu, bia, cá muối, dưa khủ, nước mắm có chứa nhiều chất Nitrosamin có liên quan đến một số loại ung thư của đường tiêu hoá và UTVMH.  Tuổi và giới  Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi từ 5 đến 85 tuổi, tuy nhiên lứa tuổi hay gặp nhất từ 40 - 60 chiếm tỉ lệ 50 - 70%. Bệnh gặp ở cả hai giới, tuy nhiên hay gặp ở nam hơn (tỉ lệ nam/nữ = 2,5/1).  Triệu chứng lâm sàng của ung thư vòm họng Giai đoạn đầu các triệu chứng của bệnh rất mơ hồ, kín đáo và dễ chẩn đoán nhầm sang các bệnh khác, khi các triệu chứng đã rõ ràng thì bệnh đã ở giai đoạn muộn. Giai đoạn sớm.  Người bệnh thường có những biểu hiện như: nhức đầu (lan tỏa, âm ỉ, thường ở một bên), ù tai (đa số một bên, ù như tiếng ve kêu), ngạt mũi một bên lúc nặng lúc nhẹ, đôi khi xì ra máu mũi.  Giai đoạn muộn  Lúc này khối u phát triển tăng dần về kích thước, xâm lấn ra xung quanh nên bệnh nhân nhức đầu liên tục có lúc dữ dội, có điểm đau khu trú; ù tai tăng, nghe kém, giảm thính lực, có thể điếc, ngạt mũi liên tục, kèm chảy máu mũi, không đáp ứng với điều trị thông thường.  Nhức đầu liên tục là một trong những triệu chứng của bệnh UTVMH. Khi soi vòm mũi họng ta sẽ thấy: khối u có thể nằm ở trần vòm hoặc ở thành bên hoặc lan rộng. Giai đoạn muộn có thể gặp u đẩy lồi nhãn cầu, lan xuống họng miệng hoặc sùi ra ống tai ngoài. Qua nội soi tai mũi họng tiến hành sinh thiết u làm chẩn đoán mô bệnh học. - Khám các dây thần kinh sọ: các dây số III, IV, V, Vì hay bị tổn thương sớm và ở giai đoạn muộn có thể tổn thương nhiều dây thần kinh.  Khám bệ hạch cổ: thường nổi hạch cổ cùng bên với u nguyên phát, hạch góc hàm tổn thương sớm và hay gặp nhất. Ban đầu hạch nhỏ còn di động, sau hạch to dần, chắc, cố định.  Các xét nghiệm cận lâm sàng  Khi có các biểu hiện lâm sàng như trên, người bệnh sẽ được chỉ định làm các xét nghiệm cận lâm sàng để chẩn đoán xác định. Các xét nghiệm được chỉ định tuần tự từ đơn giản đến phức tạp, từ rẻ tiền đến đắt tiền. Tuy nhiên, mục đích quan trọng nhất là chẩn đoán chính xác bệnh cũng như phục vụ cho việc lựa chọn phương pháp điều trị hợp lí nhất cho giai đoạn sau này.  Chẩn đoán tế bào học: Quệt tế bào bong ở vòm họng tìm tế bào ung thư.  Chọc hút kim nhỏ làm chẩn đoán tế bào ung thư tại hạch cổ.  Chẩn đoán mô bệnh học: là xét nghiệm bắt buộc phải có để chẩn đoán xác định bệnh.  Sinh thiết trực tiếp u vòm qua ống soi cứng hoặc mềm.  Sinh thiết hạch cổ nếu kết quả MBH 1 vòm âm tính (chẩn đoán gián tiếp).  Chẩn đoán hình ảnh: Đây là chẩn đoán quan trọng để đánh giá mức độ lan tràn cũng như giai đoạn bệnh.  Chụp X-quang tư thế Hirtz, Blondeaux (hiện nay ít làm vì giá trị chẩn đoán không cao). tế + Chụp CT scan vùng vòm, nền sọ (có mở cửa sổ Xương) thấy hình u làm đầy trần và thành vòm, tại cửa sổ xương thấy hình tiêu xương nền sọ nếu có tổn thương xương.  Chụp cộng hưởng từ (MRI) vòm và sọ não thấy u vòm xâm lấn ra các phần mềm xung quanh hoặc thấy tổn thương di căn não trên phim chụp sọ.  Siêu âm vùng cổ tìm hạch, siêu âm ổ bụng tìm di căn, chụp phổi thẳng tìm di căn. M + Xạ hình xương với máy SPECT phát hiện di căn ở xương cột sống, xương chậu, xương sườn...  Chụp PET/CT cho phép đánh giá chính xác tổn thương tại vòm, hạch, cũng như ổ di căn, tái phát ung thư bằng việc tăng hấp thu FDG. PET/CT cũng được ứng dụng trong việc mô phỏng lập kế hoạch xạ trị.  Xét nghiệm miễn dịch tìm vi-rút Epstein Barr như: IgACA, IgA/EA, IgG/EBNA... công thức máu, sinh hóa, điện tim... đánh giá tình trạng toàn thân.  Tiêu chuẩn chẩn đoán xác định:  Khám lâm sàng và cận lâm sàng có tổn thương u vài hoặc hạch Cổ. Kết quả chẩn đoán mô bệnh học (u hoặc hạch) là ung thư (có thể phải làm nhiều lần và cần thiết phải nhuộm đặc biệt để xác định týp mô học). 
Các cách điều trị ung thư đại tràng

Các cách điều trị ung thư đại tràng

Các cách điều trị ung thư đại tràng Phẫu thuật  Phẫu thuật là phương pháp điều trị triệt căn trong UT đại - trực tràng. Thông thường là phẫu thuật cắt bỏ khối u cùng với một phần đại tràng hoặc trực tràng và các hạch lân cận.  Điều trị bằng hóa chất  Sau phẫu thuật nếu có di căn hạch, người bệnh bắt buộc phải sử dụng hoá chất. Các hoá chất được sử dụng đều làm tăng thời gian sống thêm, giảm tỉ lệ tử vong.  Xạ trị  Xạ trị được chỉ định trong các trường hợp UT trực tràng đoan giữa và đoạn thấp, khi mà khối u chiếm hơn một nửa lòng ống trực tràng hoặc dính và xâm lấn tổ chức xung quanh.  Xạ trị trước phẫu thuật: khi khối u lớn, ít di động, để làm giảm thể tích khối u và tăng mức độ di động, tạo thuận lợi cho phẫu thuật và làm tăng tỉ lệ bảo tồn cơ tròn.  Xạ trị sau phẫu thuật: khi khối u đã vượt qua lớp thanh mạc.  Xạ trị trong mổ: áp dụng cho các trường hợp không cắt bỏ hết được khối u hoặc tái phát. Nếu không thể thực hiện xạ trị trong mổ, người bệnh được xạ trị ngoài sớm ngay sau phẫu thuật, tiếp theo là hoá trị liệu bổ trợ. Đối với các trường hợp không cắt bỏ được tiến hành xạ trị với liều xạ cao và hóa trị liệu đồng thời với xạ trị.  Điều trị đích  Là xu hướng điều trị mới hiện nay. Các phác đồ điều trị hóa chất có thể phối hợp với các thuốc điều trị đích như: thuốc ức chế tăng sinh mạch, thuốc ức chế yếu tố phát triển biểu bì bề mặt. Tuy nhiên, không phải lúc nào điều trị đích cũng có hiệu quả.  Với ung thư đại trực tràng di căn gan  Nếu tổn thương khu trú: phẫu thuật cắt gan trong cùng một thì với cắt khối u nguyên phát. | Nếu không thể cắt bỏ được khối u: điều trị bằng hoá chất động mạch, sóng radio cao tần, áp lạnh huỳnh quang.  Theo dõi và tiên lượng Theo dõi Năm đầu tiên sau mổ: 3 tháng khám lại một lần. Khám lâm sàng các vùng khối u, hạch và các vị trí hay gặp di căn như: gan, phổi. Siêu âm bụng, chụp X-quang phổi, xét nghiệm CEA.  Năm thứ hai và những năm tiếp theo: 6 tháng khám lại một lần.  Từ năm thứ ba trở đi, mỗi năm một lần theo trình tự trên.  Tiên lượng  Nhìn chung, UT đại tràng có tiên lượng tốt hơn UT trực tràng do được phẫu thuật triệt còn cao hơn. Tỉ lệ khỏi bệnh sau 5 năm là từ 40 - 60%.  So với các UT đường tiêu hoá, UT đại - trực tràng Có tiên lượng tốt hơn và được coi là UT ưu tiên chữa khỏi.  
Cách chẩn đoán ung thư vú sớm và chính xác nhất

Cách chẩn đoán ung thư vú sớm và chính xác nhất

Chẩn đoán ung thư vú, nhất là ung thư vú sớm vẫn còn là vấn đề lớn của toàn thế giới, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Chương trình sàng lọc ung thư vú quốc gia ở UK tuy được triển khai như vậy nhưng hàng năm với 48.000 trường hợp mắc mới cũng chỉ có 1/3 được phát hiện nhờ sàng lọc, số còn lại vẫn phải nhờ khám chẩn đoán hàng ngày tại bệnh viện. Cũng như mọi loại ung thư khác cần khám chẩn đoán xác định ung thư vú, chẩn đoán giai đoạn bệnh, độ biệt hoá của tế bào. Ngoài ra, với ung thư vú còn cần xác định tình trạng thụ thể nội tiết bằng nhuộm hoá mô miễn dịch và yếu tố phát triển biểu bì HER-2/Neu.  Chẩn đoán xác định ung thư vú Trước khi xác định ung thư vú cần chẩn đoán phân biệt với các u lành tuyến vú như: u xơ tuyến vú (hay gặp nhất), u mỡ, u máu, u nang, u tuyến bã... Có ba yếu tố để chẩn đoán ung thư vú hay thường gọi “bộ ba” chẩn đoán ung thư vú. Đó là:  Khám lâm sàng (khối u rắn chắc, ranh giới không rõ ràng, nếu muốn có thể thấy u di động hạn chế, có thể làm thay đổi màu da hay hình “sần da cam”, tụt núm vú, chảy dịch núm vú...).  X-quang tuyến vú có u ranh giới không đều, có nhiều gai tua, đặc biệt có hình can xi hoá hay hình vi can xi hoá có thể một ổ hay nhiều ổ (BI-RADS: 6).  Dưới hướng dẫn của siêu âm hay X-quang chọc hút tế bào bằng kim nhỏ cho kết quả có tế bào ác tính.  Chụp X-quang chẩn đoán ung thư vú. Xác định ung thư vú Khi cả ba nghiệm pháp này đều cho kết quả dương tính thì ung thư vú được chẩn đoán xác định. Nếu một trong ba yêu tố đó âm tính cần phải làm thêm các xét nghiệm khác và thường phải làm sinh thiết để khẳng định bằng mô bệnh học. Nếu cả ba yếu tố này đều âm tính, khả năng ung thư là rất ít, có thể để theo dõi tiếp. Khi đã chẩn đoán ung thư vú mà tiêu chuẩn vàng phải là mô bệnh học, bước tiếp theo là chẩn đoán giai đoạn. Dựa vào kích thước khối u, mức độ di căn hạch nách, tình trạng di căn xa có hay không mà người ta chia ung thư vú làm 5 giai đoạn: O, I, II, III và IV. Giai đoạn O là ung thư tại chỗ, chưa có di căn hạch. Giai đoạn càng cao khi u càng to và hoặc di căn hạch càng nhiều. Giai đoạn IV là giai đoạn cuối bất kể u to hay nhỏ, hạch di căn nhiều hay ít nhưng đã có di căn xa vào xương, phổi, gan, não... vì thế bệnh nhân cần được làm các xét nghiệm để đánh giá tình trạng toàn thân, gan, phổi, não, xương, thận...  Để có thể đáp ứng nhu cầu điều trị, bệnh nhân còn được chẩn đoán độ biệt hoá tế bào: biệt hoá cao, biệt hoá vừa, biệt hoá thấp (kém) và không biệt hoá. Mức độ biệt hoá càng thấp, độ ác tính của tế bào càng cao, điều trị hoá chất càng cần thiết. Đánh giá mức độ đáp ứng thụ thể nội tiết ER, PR và HER-2/Neu bằng hoá mô miễn dịch. Nếu ER / PR (+) HER-2/Neu có 3(+) cần được điều trị nội tiết và trúng địch. Nếu HER-2/Neu chỉ có 2(+) cần làm thêm FISH nếu (-) không có chỉ định điều trị trúng đích.   
Biểu hiện, triệu chứng lâm sàng của ung thư vú

Biểu hiện, triệu chứng lâm sàng của ung thư vú

Biểu hiện của ung thư vú Ung thư vú có thời kỳ “tiền lâm sàng” kéo dài tới 8 - 10 năm, thời gian để một tế bào ung thư vú đầu tiên trở thành một khối u có đường kính 1cm (tương đương 1 tỷ tế bào) để Có thể sờ thấy. Thời kỳ này thường phải “khám sàng lọc mới phát hiện được. Từ 1cm thành khối u có đường kính 2cm chỉ Cần 4 tháng, đây là thời gian cả bệnh nhân và thầy thuốc có thể phát hiện được bằng sờ nắn, khám tuyến vú đúng quy cách. Từ khối u có đường kính 2cm phát triển thành 4cm cần thời gian ngắn hơn nữa tuỳ thuộc Có bao nhiêu % tế bào ung thư tham gia vào quá trình phân chia (quá trình nhân đôi). Và các nhà nghiên cứu cho rằng, tế bào ung thư phân chia theo hàm số mũ. 80 - 90% bệnh nhân ung thư vú phát hiện có u. Khi khối u to xâm lấn xuống sâu vào cơ thành ngực, thành ngực làm khối u cố định không di động được khi thăm khám. Khối u ở xung quanh núm vú sẽ kéo tụt núm vú. Khối u xâm lấn ra ngoài da dính vào da làm da thay đổi màu da hoặc hình “sần da cam”. Ung thư vú thể viêm gây tình trạng xưng, nóng, đỏ, đau một vùng hay toàn bộ tuyến vú. “Thể” này có tiên lượng rất nặng, có thể tử vong trong một vài tháng nếu không được điều trị đúng phương pháp. Ngoài ra, rất Có thể phát hiện tình trạng chảy dịch núm vú, đặc biệt dịch màu hồng hoặc dịch máu. Trong một số trường hợp xuất hiện hạch nách. Có một số trường hợp u vú có thể nhỏ nhưng hạch nách khá to gây chèn ép thần kinh, gây đau dọc mặt trong cánh tay lan xuống ngón tay. Có trường hợp sờ thấy hạch dọc mặt trong cánh tay. Những trường hợp đến muộn, khối u to xâm lấn da gây vỡ, chảy dịch, máu ra ngoài. Có một Số trường hợp di căn xương gây đau xương vùng di căn), di căn phối (ho máu, tức ngực)... ngay khi được chẩn đoán ung thư vú. Nói chung, khi phát hiện ung thư vú với các triệu chứng lâm sàng nghèo nàn thì tiên lượng tốt hơn khi các triệu chứng lâm sàng đầy đủ và phong phú.  Sàng lọc và chẩn đoán ung thư vú Những bệnh ung thư có thời gian tiền lâm sàng càng dài (tức là thời gian ung thư chưa có triệu chứng hay biểu hiện lâm sàng) thì vai trò của sàng lọc càng quan trọng. Tuy nhiên, không phải tất cả các trường hợp phát hiện được nhờ sàng lọc đều là giai đoạn sớm vì cũng có một số ít trường hợp di căn đã xảy ra ngay từ thời kỳ tiền lâm sàng.  Sàng lọc phát hiện sớm ung thư vú | Tất cả các nước phát triển có tỉ lệ mắc ung thư vú cao đều có chương trình sàng lọc phát hiện sớm ung thư vú. Biện pháp sàng lọc tốt là biện pháp có chi phí thấp mà hiệu quả phải cao, tỉ lệ dương tính giả (bị phát hiện nhầm là ung thư) và tỉ lệ âm tính giả (có ung thư mà bị bỏ sót) đều phải thấp. Biện pháp càng đơn giản, càng ít tai biến, biến chứng càng tốt. Nhờ phát hiện được ung thư ở giai đoạn sớm mà bệnh được chữa khỏi với các biện pháp đơn giản hơn, ít tốn kém hơn... Nhờ vậy, tuy ung thư vú có chiều hướng gia tăng nhưng tỉ lệ tử vong lại có xu hướng ổn định và được cải thiện ở các quốc gia đó. Có nhiều phương pháp sàng lọc được áp dụng tuỳ theo tình trạng kinh tế, lứa tuổi thọờng mắc bệnh ở mỗi quốc gia.  Vị khám sàng lọc, trang bị máy móc và nhân lực còn nhiều khó khăn. Tăng cường tuyên truyền giáo dục sức khoẻ cộng đồng, khám sức khoẻ, trong đó khám vú định kỳ, hướng dẫn tự khám vú là các biện pháp quan trọng để phát hiện sớm ung thư vú. Các biện pháp này rất có giá trị giữa 2 kỳ khám sàng lọc. Tuy vậy, X-quang không thể thiếu trong sàng lọc ung thư vú vì khi đã sờ thấy u thì giá trị sàng lọc đã giảm đi khá nhiều.  Cách phát hiện sớm ung thư vú Tự khám vú là biện pháp quan trọng để phát hiện sớm ung thư vú. Tại Hoa kỳ, chụp X-quang sàng lọc ung thư vú cũng như bác sĩ đọc phim X-quang sàng lọc ung thư vú phải được FDA cấp phép và thực hiện theo một luật riêng. Cần phải chú ý, sàng lọc bằng X-quang cho phụ nữ trẻ có tuyến vú chắc, người bị tuyến vú xơ hoá, phụ nữ có tuyến vú to (khối lượng tuyến và tổ chức mỡ lớn) luôn có tỉ lệ âm tính giả cao. Nhờ có chương trình sàng lọc quốc gia mà hàng năm UK đã giảm được 1300 phụ nữ chết mỗi năm và 1/3 SỐ ung thư vú được phát hiện sớm nhờ sàng lọc. Gần đây, X-quang vú được cải thiện bởi kỹ thuật số hoá, cắt lớp 3D đã làm cho hình ảnh nét hơn giúp nâng cao tỉ lệ chính xác hơn. Những trường hợp nghi ngờ có thể ghi hình bằng kỹ thuật MRI hoặc PET/CT. Nhờ những tiến bộ đó mà tỉ lệ ung thư vú sớm ngày càng được phát hiện nhiều hơn, nhiều phụ nữ được cứu sống hơn. Nhưng chưa có nghiên cứu nào khẳng định các nhận định đó. I Lứa tuổi được sàng lọc tuỳ thuộc vào mỗi quốc gia dựa vào lứa tuổi thường gặp. Ở Mỹ, tuổi bắt đầu sàng lọc là 43, ở Việt nam tuy chưa có chương trình sàng lọc quốc gia ung thư vú nhưng tuổi bắt đầu phải quan tâm là 40. Những trường hợp đặc biệt có thể phải sàng lọc sớm hơn, thậm chí sàng lọc gien nếu mẹ, chị em gái bị ung thư vú hoặc ung thư buồng trứng. Các gien được sàng lọc thường là BRCA1, BRCA2 và P53. Tốt nhất nếu gia đình có người bị ung thư vú thì dựa vào vị trí đột biến gian của người đó mà sàng lọc cho đối tượng cần thiết sẽ cho kết quả nhanh, chính xác và tiết kiệm hơn. Sàng lọc ung thư vú ở các nước phát triển đã làm cho bộ mặt lâm sàng ung thư vú thay đổi rất khác xưa.  
Các yếu tố nguy cơ dẫn đến ung thư vú

Các yếu tố nguy cơ dẫn đến ung thư vú

Có 2 yếu tố nguy cơ không còn bàn luận nào khác đó là giới và tuổi. Không đến 1% ung thư vú gặp ở nam giới. Tuổi càng cao khả năng mắc ung thư vú càng cao. L Cũng như phần lớn các loại ung thư khác, người ta vẫn chưa tìm được nguyên nhân trực tiếp gây ung thư vú. Nhiều nghiên cứu ở nhiều quốc gia, nhiều vùng lãnh thổ khác nhau, người ta chỉ tìm thấy mối liên quan chặt chẽ giữa một số yếu tố từ môi trường xung quanh cũng như nội tại cơ thể với ung thư vú gọi là yếu tố nguy cơ ngoại sinh và yếu tố nguy cơ nội sinh.  Các yếu tố nguy cơ ngoại sinh  80% ung thư nói chung cũng như ung thư vú liên quan trực tiếp với các yếu tố ngoại sinh, đặc biệt là môi trường sống. Tỉ lệ phụ nữ mắc ung thư vú cao ở các nước phát triển là một minh chứng. Có thể do lối sống hiện đại như: hút thuốc lá, uống rượu bia, chế độ ăn uống nhiều năng lượng, ít rau xanh, hoa quả tươi và các chất xơ. Các thuốc tránh thai, nạo phá thai, vấn đề sinh đẻ, nuôi con bằng sữa mẹ, sống và làm việc trong môi trường ô nhiễm công nghiệp, thậm chí có nghiên cứu cho biết, ô nhiễm ánh sáng (light pollution) cũng làm tăng tỉ lệ ung thư vú. Mối liên quan giữa hút thuốc lá cả chủ động lẫn thụ động với ung thư vú ở phụ nữ đã được nghiên cứu trong nhiều thập kỷ nay tại nhiều các trung tâm lớn trên toàn thế giới (nhất là ở Mỹ, Anh, Canada...). Các kết quả thu được chỉ ở mức thống nhất rất hạn chế. Tuổi bắt đầu hút thuốc càng sớm, thời gian hút càng dài, hút thuốc trong thời kỳ mang thai có môi tương quan tương đối với ung thư vú, nguy cơ tăng lên đến 35 - 50%. Có nghiên cứu cho thấy, hút thuốc thụ động lại có mối liên quan chặt chẽ hơn hút thuốc chủ động, có nghiên cứu lại thấy ngược lại. Tuy rằng 2/3 số bệnh nhân tử vong vì ung thư có liên quan đến hút thuốc lá nhưng vai trò của hút thuộc với ung thư vú lại chưa được khẳng định chắc chắn. Có thê vai trò của hút thuốc lá chỉ phát tác khi phối hợp với các yếu tố nguy cơ khác như rượu, hay trên cơ địa có bộ gien dê tổn thương... Lạm dụng rượu bia với ung thư vú: Người ta nghĩ rượu chỉ liên quan đến ung thư gan, ung thư tuy. Một nghiên cứu trên 1,2 triệu phụ nữ trung niên ở Anh Quốc đã đưa ra kết luận: nếu mỗi ngày uống 2 đơn vị cồn (1 đơn vị tương đương 10ml rượu mạnh hay 330ml bia) thì khả năng mắc ung thư tăng lên 8% so với phụ nữ chỉ uống mỗi ngày 1 đơn vị. Nếu uống hơn 2 đơn vị mỗi ngày càng Lạm dụng rượu bia làm tăng khả năng mắc ung khả năng này tăng thêm 1,1%.  Cơ chế liên quan rượu bia với ung thư vú người ta cho rằng, rượu bia kích thích tiết nội tiết tố nữ estrogen& androgen) mà 65 - 70% ung thư vú phát triển phụ thuộc nội tiết này và làm tăng khả năng di căn ung thư vú. Rượu bia kích hoạt các chất gây ung thư làm tổn thương nhu mô tuyến vú. Các chất chuyển hoá của rượu bia như Acetethanol gây tổn thương DNA của tế bào tuyến vú. Thuốc tránh thai đường uống: Dùng thuốc tránh thai đường uống kéo dài, thường xuyên trên 5 năm làm tăng khả năng mắc ung thư vú lên 1.5 lần, trên 10 năm tăng lên 2 lần so với người không dùng. Nhưng nếu dùng không dùng sau 5 năm khả năng mắc bệnh trở lại như người bình thường. Nạo phá thai dường như không làm tăng nguy cơ mắc ung thư vú. Phụ nữ dùng nội tiết hỗ trợ ở tuổi tiền mãn kinh trên 5 năm (Estrogene + Prolactine) cũng có nguy cơ cao hơn. | Chế độ dinh dưỡng và ung thư vú: Có thể chế độ ăn uống dẫn đến béo phì làm tăng nguy cơ ung thư vú. Phân lớn bệnh nhân ung thư vú có chỉ số khối cơ thể (MBI) lớn hơn 23. Chế độ ăn nhiều chất béo, thiếu rau xanh, hoa quả tươi, thiếu các vi chất mà chỉ có ở hạt ngũ cốc nguyên vẹn, thiếu i-ốt... Chỉ số cholesteron máu cao, bệnh tiểu đường cũng là yếu tố nguy cơ với ung thư vú. Lối sống ít hoạt động thể chất, làm việc trong môi trường có nhiễm phóng xạ hoặc đã được điều trị bằng phóng xạ vào vùng ngực cũng làm tăng khả năng mắc bệnh. Những yếu tố nội sinh  Phụ nữ có kinh nguyệt sớm (trước 13 tuổi với phụ nữ Việt Nam, trước 12 tuổi với phụ nữ Mỹ) và tắt kinh muộn (sau 50 tuổi với phụ nữ Việt Nam và sau 55 tuổi với phụ nữ Mỹ) có khả năng mắc ung thư vú cao hơn người khác. Cũng như vậy, với phụ nữ có con đầu lòng sau 30 tuổi và không sinh con lần nào hoặc không cho con bú có tỉ lệ ung thư vú cao hơn. Ung thư vú là loại ung thư có mối liên quan với di truyền khá cao. Có đến 5 - 10% số bệnh nhân ung thư vú liên quan đến gien di truyền từ thế hệ này sang thế hệ sau. Từ thế hệ đầu tiên (thế hệ O) đến thế hệ thứ nhất rồi thế hệ thứ hai bị ung thư vú ở người trước 80 tuổi, ở Mỹ người ta tính được lần lượt là 7.8%, 13.3% và 21.1%. Và tử vong lần lượt là 2,3%, 4,2% và 7,6%. Những người Có mẹ bị ung thư vú thì khả năng bị ung thư vú cao gấp đôi người thường ở lứa tuổi 40 - 50. Hội chứng di truyền ung thư vú • buồng trứng (Hereditary Breast - Ovarian cancer syndrome) trong đó chủ yếu do đột biến gien BRCA1 và BRCA2. Đột biến này di truyền cho thế hệ sau gần như 100%, đặc biệt khi mẹ bị cả 2 ung thư. Vì vậy, có người khuyên nên cắt cả 2 tuyến vú dự phòng trước khi bị ung thư nếu mẹ bị 2 ung thư mà xét nghiệm - Có đột biến gien BRCA1 và BRCA2. Ngoài ra, đột biến các gien P53, PTEN (Cowden syndrome), STK( Peutz Jeghers syndrome)... cũng đang được nghiên cứu. Các thụ thể nội tiết ER (Estrogene Receptor), PR (Progesterone Receptor) ở tế bào ung thư vú được nghiên cứu như là một yếu tố nguy cơ đã mở ra một kỷ nguyên mới trong điều trị ung thư vú, điều trị nội tiết. Và bộc lộ quá mức yếu tố phát triển biểu bì (Her-2/neu) cũng đã có những ứng dụng quan trọng trong điều trị ung thư vú bằng kháng thể đơn dòng (điều trị trúng đích).  
Tìm hiểu chung về ung thư vú tại Việt Nam và trên thế giới

Tìm hiểu chung về ung thư vú tại Việt Nam và trên thế giới

Khái niệm về ung thư vú Vú được cấu tạo nên bởi nhiều loại tế bào, tổ chức khác nhau nhưng chủ yếu là tế bào tổ chức tuyến vú. Bài này chỉ tập trung tìm hiểu ung thư tế bào tổ chức tuyến vú hay ung thư biểu mô tuyến vú vì nó là bệnh thường gặp nhất ở phụ nữ. BA Các tế bào chế tiết sữa hoặc tế bào lót ống dẫn sữa bị biến đổi thành tế bào ung thư do đột biến gian không sửa chữa bởi các yếu tố nguy cơ ngoại sinh và/hoặc các yếu tố nội sinh. Những tế bào ung thư này tạo nên 2 thể thường gặp nhất là ung thư thể tiểu thuỳ và thể ống xâm nhập. Các tế bào ung thư này cũng như các tế bào ung thư các cơ quan khác có các đặc điểm là: phát triển bằng phương pháp nhân đôi như tế bào lành nhưng không được kiểm soát, phát triển vô hạn độ, tế bào được sinh ra không thực hiện chức năng của tế bào lành mà lại tiết ra các chất có tác dụng kích thích tăng sinh mạch máu, các chất hoại tử u...; tế bào già nhưng không chết theo chương trình định sẵn; Có khả năng xâm lấn hay xâm nhập vào các cơ quan tổ chức lân cận; và có khả năng tách khỏi khối u nguyên phát chui vào hệ thống tuần hoàn chung hoặc hệ bạch mạch đi đến định cư và phát triển ở một hoặc nhiều cơ quan khác trong cơ thể hoặc sang vú đối bên (di căn).  Tình hình mắc bệnh ung thư vú trên thế giới  Ung thư vú là loại ung thư thường gặp nhất ở phụ nữ, đặc biệt ở các nước phát triển. Tình trạng gia tăng ung thư vú dường như song hành với lối sống hiện đại. Các nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi trước đây tỉ lệ mắc chỉ khoảng dưới 10/100.000 phụ nữ thì năm 2012 đã lên đến 20 - 30/100.000, các nước ở Nam  u, Đông  u, Nam Mỹ vào khoảng 40 - 60/100.000 và Úc, Tây  u, Bắc Mỹ đạt tới 75 - 90 /100.000 phụ nữ. Tính tỉ lệ chuẩn theo tuổi, các quốc gia có tỉ lệ cao trên 100/100.000 phụ nữ bị ung thư vú có thể kể đến như: Anh (124/100.000), Mỹ (129/100.000), Pháp (120/100.000). Những phụ nữ Tây  u, Bắc Mỹ trên 50 tuổi có tỉ lệ mắc cao đến 150/100.000. AN Tại Mỹ, vào năm 2009, phụ nữ trước 30 tuổi chỉ có 1/227, 30 - 40 tuổi có 1/68, 40 - 50 tuổi có 1142, 50 - 60 tuổi có 1/28, và 60 - 70 tuổi có 1/26 phụ nữ bị ung thư vú. Người ta tính rằng với tần suất hiện nay, 12,4% phụ nữ Mỹ sẽ bị ung thư vú trong cuộc đời họ. Nếu tần suất tăng như hiện nay, cứ 8 bé gái được sinh bây giờ sẽ có 1 bé bị ung thư vú trong cuộc đời! Trước năm 1970, tỉ lệ này là 1/10!  Năm 2012, trên toàn cầu có tới 1,68 triệu trường hợp mới mắc và 522.000 người chết vì ung thư vú (trung bình mỗi phút có hơn 3 người mắc và 1 người chết vì căn bệnh này). Ung thư vú chiếm tới 25% tổng số ung thư ở nữ giới. Tuy tỉ lệ tử vong do ung thư vú được cải thiện rất đáng kể (80 - 85% bệnh nhân sống quá 5 năm) nhưng tử vong do ung thư vú vẫn đứng hàng đầu, trên cả ung thư phổi ở nữ giới.  Tình hình mắc bệnh ung thư vú tại Việt Nam Tại Việt Nam, những thống kê của đầu những năm 2000 tỉ lệ này vào khoảng 16/100.000 phụ nữ thì hiện nay con số này đã là 29/100.000. Ghi nhận của Hội phòng chống Ung thư Việt Nam cho thấy, các thành phố lớn (Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh) có tỉ lệ mắc cao hơn các tỉnh, thành phố khác (Thái Nguyên, Hải Phòng, Huế và Cần Thơ). Tuổi mắc bệnh trung bình của phụ nữ Việt Nam thấp hơn đáng kể so với các nước phát triển. 50% số bệnh nhân được điều trị triệt căn ung thư vú ở Việt Nam trong khoảng tuổi 40 - 50, trong khi ở Mỹ khoảng tuổi này là 50 - 65.  
Các phương pháp điều trị cũng như phòng tránh ung thư gan

Các phương pháp điều trị cũng như phòng tránh ung thư gan

Điều trị ung thư gan Điều trị bệnh nhân ung thư gan tuỳ thuộc rất nhiều yếu tố, bệnh nhân khi vào viện sẽ được đánh giá bilan toàn thân, sau đó bác sĩ sẽ lựa chọn phương pháp điều trị phù hợp dựa trên các yếu tố như: giai đoạn bệnh, kích thước, số lượng, vị trí khối u gan, thể trạng bệnh nhân, có hay không bệnh lý nội khoa kèm theo...  Nguyên tắc điều trị Giải quyết (các) khối ung thư gan đã phát hiện kết hợp với điều trị bệnh lý nền tảng hay yếu tố nguy cơ (viêm gan vi-rút B hoặc C, xơ gan...). Điều trị bao gồm nhiều phương pháp khác nhau: Phẫu thuật Phẫu thuật cắt bỏ phần gan có mang khối u Phẫu thuật ghép gan Phá hủy u tại chỗ bằng sóng cao tần (radiofrequency ablation: RFA), bằng vi sóng (microwave), bằng điện đông (cryotherapy). RFA cũng có thể được sử dụng như một liệu pháp bổ sung cho các bệnh nhân chờ cấy ghép. Ở một số bệnh nhân, tiến triển khối u có thể bị trì hoãn nếu không có sự gia tăng tỉ lệ mắc bệnh liên quan đến cấy ghép gan sau phẫu thuật cắt mở. Tiêm cồn tuyệt đối qua da Đây là kỹ thuật xâm lấn đầu tiên được sử dụng cho ung thư biểu mô tế bào gan. Tiêm cồn trực tiếp vào khối u để làm tổn thương khối u, thường được thực hiện với sự hướng dẫn siêu âm. Hiện nay có các phương pháp khác như: nút mạch, đốt sóng cao tần nên phương pháp tiêm cồn ít được sử dụng. Nút mạch gan hóa chất thông thường (Transcatheter arterial chemoembolization: TACE): TACE - Lipiodol): Được áp dụng trên thế giới từ những năm 70, đến nay vẫn chứng tỏ được vai trò trong điều trị các khối u gan nguyên phát. Hiện nay phổ biến ở các nước châu Á (Hàn Quốc, Nhật Bản cũng như ở Việt Nam). Ưu điểm là rẻ tiền nhưng hội chứng sau nút mạch nặng nề, ảnh hưởng đến các cơ quan tim mạch, lông - tóc - móng, hệ tạo máu... do hóa chất nút mạch đi vào trong tuần hoàn. Nút mạch u gan bằng hoá chất kết hợp với hạt gây tắc mạch vĩnh viễn (DC bead, Hepashere...): ưu điểm là gây tắc mạch vĩnh viễn khối u, sau đó hóa chất sẽ Nút mạch hóa chất điều trị bệnh ung thư gan tách các hạt này dần dần vào trong khối u, do đó làm tập trung nồng độ cao hóa chất trong khối u và giảm lượng hoá chất trong tuần hoàn cơ thể, nhược điểm của phương pháp này là chi phí cao. Tắc mạch phóng xạ (Radio embolization): đây là phương pháp xạ trị trong chọn lọc (Selective internal radio therapy: SIR), sử dụng hạt vi cầu phóng xạ Ytrium-90 (90Y) bơm vào động mạch nuôi khối u gan. Tia bêta do 90, phát ra tại chỗ sẽ tiêu diệt tế bào u mà không ảnh hưởng tới tổ chức lành. Phương pháp này được chỉ định trong những trường hợp khối u khu trú tại chỗ chưa di căn xa, chức năng gan tốt và thể trạng bệnh nhân cho phép. Xạ trị chiếu ngoài bằng máy gia tốc: chủ yếu là làm chậm sự phát triển của (các) khối u, giảm nhẹ triệu chứng. Ngoài ra, có thể chỉ định xạ trị cho những trường hợp ung thư gan di căn xương, di căn não, di căn phổi, di căn hạch. Hóa trị toàn thân hoặc liệu pháp nhắm trúng đích: được sử dụng trong trường hợp ung thư gan giai đoạn muộn, nhằm cải thiện triệu chứng và nâng cao thời gian sống thêm. Thuốc điều trị đích trong bệnh ung thư gan hiện nay được áp dụng tại Việt Nam là Sorafenib.  Điều trị triệu chứng (nâng đỡ) cho ung thư gan giai đoạn muộn: điều trị giảm đau và nâng cao thể trạng... Điều trị bệnh lý nền tảng và nâng đỡ chức năng gan, dùng thuốc kháng vi-rút khi có chỉ định.  Tiên lượng bệnh Nói chung, ung thư gan là bệnh có tiên lượng xấu, tiên lượng bệnh phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Bệnh tiên lượng tốt khi: bệnh phát hiện ở giai đoạn sớm, thể trạng bệnh nhân tốt, không kèm theo bệnh lý về gan (xơ gan, viêm gan vi rút...). Bệnh tiên lượng xấu khi phát hiện ở giai đoạn muộn, thể trạng kém, kèm theo các bệnh lý về gan (xơ gan, viêm gan vi-rút mãn tính...).  Phòng bệnh ung thư gan Nguyên nhân gây bệnh ung thư gan chưa biết rõ, do vậy, biện pháp phòng bệnh chính là ngăn ngừa, hạn chế tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ gây bệnh.  Cần tiêm vắc-xin phòng bệnh viêm gan siêu vi B đầy đủ.  Tiêm vắc-xin viêm gan siêu vi B đề phòng bệnh ung thư gan  Không lạm dụng rượu bia, thuốc lá: Nếu dùng nhiều và thường xuyên sẽ làm tăng nguy cơ xơ gan, khiến ung thư gan dễ dàng phát triển.  Chế độ ăn uống, nghỉ ngơi hợp lý, lối sống lành mạnh.   Không dùng chung bơm kim tiêm, bàn chải đánh răng, dao cạo râu có dính máu của người bệnh, sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục để phòng tránh viêm gan siêu vi B.   Những người mắc viêm gan B, C, hoặc các bệnh lý về gan (viêm gan do rượu, gan nhiễm mỡ, xơ gan...) cân được điều trị và theo dõi chặt chẽ tại các cơ sở y tế.   Khám sức khỏe định kỳ 6 tháng/lần.   
Tổng quan những điều cần biết về ung thư gan

Tổng quan những điều cần biết về ung thư gan

Tổng quan về ung thư gan Hiện nay, ung thư gan là nguyên nhân đứng hàng thứ ba gây tử vong do ung thư. Tại Việt Nam, theo cơ quan ghi nhận ung thư quốc tế được công bố trên Globocan 2012, tỉ lệ mắc ung thư gan chuẩn theo tuổi ở nam giới là 40,2/100.000 dân, phổ biến đứng hàng thứ 2; nữ giới là 10,9/100.000 dân, phổ biến đứng hàng thứ 3.  Ung thư gan bao gồm: ung thư gan nguyên phát, ung thư gan thứ phát. Ung thư gan nguyên phát hay ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) là khối u ác tính phát triển từ tế bào gan, khác với ung thư gan thứ phát là loại ung thư từ một cơ quan khác của cơ thể di căn đến gan. Trong bài này chúng tôi chỉ đề cập tới ung thư gan nguyên phát..  Nguyên nhân gây ung thư gan Nguyên nhân cũng như cơ chế sinh bệnh học của ung thư gan đến nay vẫn còn chưa biết rõ. Qua các công trình nghiên cứu cũng như thực tế lâm sàng, người ta thấy nhiều yêu tố liên quan chặt chẽ với ung thư gan, đó là: Xơ gan: trong thực tế lâm sàng người ta nhận thấy 70 - 80% ung thư gan phát triển trên xơ gan. Ở Pháp, chứng nghiện rượu là nguyên nhân gây xơ gan đối với 90%. Ở Nhật Bản, Việt Nam, một số nước châu Á và châu Phi, 80 - 90% ung thư gan phát triển từ xơ gan do viêm gan vi-rút B, C mạn tính.  Viêm gan vi-rút B: nhiễm vi-rút viêm gan B mãn tính được xem là nguyên nhân quan trọng nhất gây ung thư gan, đặc biệt ở châu Á, châu Phi. Những người mắc viên gan B có nguy cơ bị ung thư gan cao gấp khoảng hơn 200 lần so với người không mắc viêm gan B. Có khoảng 15 - 20, xơ gan do nhiễm vi-rút viêm gan B biến chứng thành ung thư gan.  Viêm gan vi-rút C: tỉ lệ nhiễm bệnh ngày càng có xu hướng tăng. Các nghiên cứu dịch tễ học gần đây cho thấy sự liên quan giữa nhiễm vi-rút viêm gan C và ung thư gan.  Ký sinh trùng, đặc biệt là sán lá gan: rất nhiều công trình nghiên cứu đã nhận thấy vai trò của nhiễm trùng sán lá trong bệnh lý gan. Tuy nhiên cho đến nay, người ta vẫn chưa tìm thấy mối liên hệ giữa ung thư gan và sán lá gan. Các yếu tố khác Rượu: những người nghiện rượu có nguy cơ mắc ung thư gan cao gấp 4 - 5 lần so với những những người không nghiện rượu. Thuốc lá: những người hút thuốc lá có nguy cơ mắc ung thư gan cao gấp từ 2 - 8 lần so với những người không hút thuốc lá. Aflatoxin: Aflatoxin được bài tiết từ nấm Aspergillus flavus thường có trong lúa mì, lạc, ngô... bị mốc. Dioxine: tại Việt Nam, hậu quả của chiến tranh để lại với hàng triệu tấn chất độc màu da Sử dụng rượu và thuốc lá sẽ cam có chứa chất Dioxine cũng làm tăng nguy cơ mắc UT gan là một yếu tố nguy cơ gây bệnh ung thư gan Các bệnh lý của gan: chứng nhiễm sắc tố sắt (Haemochromatosis), xơ đường mật nguyên phát Dấu hiệu nhận biết ung thư gan Chẩn đoán ung thư gan chủ yếu dựa vào các dấu hiệu lâm sàng, xét nghiệm máu và các phương pháp chẩn đoán hình ảnh. Tại nước ta, đa số bệnh nhân thường đến khám bệnh khi đã ở giai đoạn muộn, các biểu hiện của bệnh khá rõ ràng nên việc chẩn đoán không khó. Các triệu chứng của ung thư gan có thể bao gồm: Mệt mỏi, gầy sút cân. Chán ăn, ăn kém, buồn nôn, nôn Đau âm ỉ vùng hạ sườn phải, thượng vị. - Cổ trướng. - Vàng da, củng mạc mắt vàng. Triệu chứng khởi đầu cũng thường gặp là trên các bệnh nhân xơ gan đột ngột xuất hiện biến chứng (cổ trướng, vàng da, xuất huyết tiêu hoá do giãn vỡ tĩnh mạch thực quản). . Một số trường hợp phát hiện sớm bệnh ung thư gan khi siêu âm ổ bụng tình cờ phát hiện u gan hoặc khi thăm khám sức khỏe định kỳ.   
Cách điều trị và phòng bệnh ung thư dạ dày

Cách điều trị và phòng bệnh ung thư dạ dày

Phương pháp điều trị ung thư dạ dày Điều trị ung thư dạ dày và kết quả điều trị ung thư dạ dày phụ thuộc phần lớn vào giai đoạn bệnh và sau đó là thể trạng người bệnh.  Phẫu thuật cắt bỏ rộng rãi phần dạ dày bị ung thư, vét sạch mỡ và các hạch bạch huyết xung quanh dạ dày là phương pháp điều trị quan trọng nhất. Nếu ung thư mới chỉ xâm nhập lớp niêm mạc hoặc mới chỉ đến lớp dưới niêm mạc • ung thư dạ dày sớm, vấn đề điều trị rất đơn giản. Ở Nhật Bản, Hàn Quốc người ta chỉ cắt niêm mạc mạc dạ dày (nếu ung thư không loét, không lớn hơn 2cm) hoặc cắt cả dưới niêm cùng một khối qua nội soi ống mềm Có hay không sự trợ giúp nội soi ổ bụng. Cắt dạ dày hình chêm lấy bỏ tổn thương ung thư, kiểm tra hạch bạch huyết bằng mổ nội soi ổ bụng hoặc mổ mở kinh điển. Nếu diện cắt dạ dày, hạch bạch huyết không có tế bào ung thư thì quy trình điều trị ung thư dạ dày đã hoàn chỉnh.  Ở Việt Nam, những kỹ thuật này hiện chưa được phổ biến nên các bác sĩ vẫn áp dụng cắt bán phần dạ dày và vét hạch. Kết quả điều trị bệnh ở giai đoạn này rất tốt, 90 - 95% khỏi bệnh. Giai đoạn B cắt dạ dày gần toàn bộ hoặc toàn bộ phụ thuộc vào vị trí của khối u 1/3 dưới, 1/3 giữa hay 1/3 trên. Kiểm tra vét được > 15 hạch mà các hạch không bị di căn và tế bào ung thư biệt hóa hoặc biệt hóa cao coi như điều trị xong. Cần điều trị hóa chất bổ trợ sau mổ cho bệnh nhân có tế bào ung thư kém biệt hóa, tế bào nhân hoặc chế nhầy. Giai đoạn C bắt buộc điều trị hóa chất bổ trợ sau mổ (giai đoạn đã có di căn hạch). Hiện nay với giai đoạn C, tế bào ung thư vượt qua lớp thanh mạc, có nhiều hạch di căn, tiên lượng cuộc mổ khó khăn, nhiều trung tâm kể cả ở Việt Nam áp dụng điều trị hóa chất trước mổ. Phối hợp hóa trị và xạ trị đồng thời cho các trường hợp này cũng đang được nghiên cứu và cho kết quả khả quan.  Nhìn chung, ung thư đã có di căn vào hạch chỉ có 20 - 30% sống quá 5 năm nếu được điều trị hóa chất phối hợp, nếu xâm lấn các tạng xung quanh mà cắt bỏ được và cũng có hóa chất bổ trợ chỉ có 15 - 20%. Nếu đã di căn xa vào gan, não, phổi... hầu như không có bệnh nhân nào qua khỏi 5 năm.  Điều trị ung thư giai đoạn muộn chủ yếu nhằm kéo dài thời gian và chất lượng sống cho người bệnh được gọi là điều trị chăm sóc giảm nhẹ. Vẫn có thể phẫu thuật dù không lây hết tổ chức ung thư nhưng ung thư đe dọa tính mạng người bệnh như ung thư gây chảy máu nặng; nối vị tràng nếu ung thư gây hẹp môn vị hoặc mở thông dạ dày, mở thông hỗng tràng nuôi dưỡng khi ung thư gây cản trở đường nuôi dưỡng tự nhiên. Hóa trị đơn thuần hay phối hợp xạ trị, gần đây còn phối hợp với điều trị đích cho giai đoạn D đang được nghiên cứu.  Cách phòng bệnh ung thư dạ dày Vì nguyên nhân trực tiếp của ung thư dạ dày chưa được khẳng định nên đề phòng bệnh ung thư là đề phòng các yếu tố nguy cơ như đã được trình bày ở trên. Điều quan trọng là khám định kỳ với những người Có yếu tố gia đình, những người đã gặp các yếu tố nguy cơ (đã bị phơi nhiễm), những người có triệu chứng viêm dạ dày tá tràng” không được tự điều trị. Khám phát hiện ung thư dạ dày, nhất là ung thư dạ dày sớm chỉ được (phải được) khám bằng nội soi ống mềm với sinh thiết nhiều mảnh. Luôn đề phòng với kết quả mô bệnh học “không thấy tế bào ung thư” vì có thể sinh thiết không đúng chỗ, mảnh sinh thiết quá nhỏ hoặc bấm sinh thiết không đủ số lượng. Cần phải cảnh báo rằng không ít người bệnh đã bị “bỏ sót” tổn thương ung thư mặc dù được khám nội soi sinh thiết Ống mềm. Kết luận không có tế bào ung thư dù đúng nhưng chỉ có giá trị trong khoảng thời gian 6 tháng đến 1 năm. Nếu dấu hiệu lâm sàng tái xuất hiện lại phải đi khám.   
TÌm hiểu về những biểu hiện, cách phát hiện và từng giai đoạn ung thư dạ dày

TÌm hiểu về những biểu hiện, cách phát hiện và từng giai đoạn ung thư dạ dày

Những biểu hiện của ung thư dạ dày Như phần trên đã trình bày, ung thư dạ dày không bao giờ xuất phát từ một niêm mạc dạ dày lành mạnh. Các yếu tố nguy cơ ngoại sinh gây nên các tổn thương - viêm niêm mạc dạ dày từ nông đến sâu và nặng nhất là viêm teo, di sản týp ruột. Vì vậy, triệu chứng ban đầu là triệu chứng viêm niêm mạc dạ dày rất mơ hồ, không đặc hiệu như: đau âm ỉ vùng thượng vị, ậm ạch khó tiêu, hay đầy bụng, đau bụng có hoặc không phụ Đau bụng, đầy bung là thuộc vào thời tiết hoặc no hay đói. Những triệu chứng ban đầu của bệnh ung thư dạ dày - Lúc đầu các triệu chứng chỉ thỉnh thoảng mới xuất hiện, dần dần chúng xuất hiện thường xuyên hơn, Càng muộn các triệu chứng càng nặng và kèm theo tình trạng gầy sút cân rõ (mất 5 - 6kg trong vòng 6 tháng), hẹp môn vị (nôn thức ăn sau ăn 2 - 3 giờ hoặc nôn thức ăn bữa trước), sờ thấy u vùng thượng vị, nôn ra máu, đại tiện phân đen hoặc sờ thấy hạch thượng đòn trái... Vì vậy, cần thận trọng với chẩn đoán lâm sàng: viêm niêm mạc dạ dày hay đau đạ dày, hội chứng dạ dày tá tràng... mà không được chẩn đoán nội soi sinh thiết. Rất nhiều bệnh nhân “tự chữa” hoặc được chữa bởi các bài thuốc dân gian” với các chẩn đoán trên. Đây là một sai lầm nguy hiểm. Ngoài ra, bệnh nhân ung thư dạ dày thường có triệu chứng thiếu máu ngày càng rõ như: da xanh, niêm mạc nhợt do chảy máu từ khối u.  Phát hiện và chẩn đoán ung thư dạ dày Những quốc gia có tỉ lệ mắc ung thư dạ dày cao nhưng có tiềm lực kinh tế tốt như: Nhật Bản, Hàn Quốc sàng lọc phát hiện “ung thư dạ dày sớm” được đưa vào chương trình mục tiêu quốc gia. Nhờ vậy, tỉ lệ tử vong được cải thiện rõ rệt trong vòng 20 - 30 năm vừa qua. Với “ung thư dạ dày sớm” - tức là ung thư mới chỉ ở lớp niêm mạc hoặc mới chỉ giới hạn ở lớp dưới niêm mạc mà không quan tâm đã có di căn hạch bạch huyết hay chưa thì tỉ lệ chữa khỏi đạt tới trên 95%. Trong khi tỉ lệ ung thư dạ dày sớm” ở các nước này được phát hiện đạt tới 65 - 70% ung thư dạ dày nói chung thì ở Việt Nam con số này chỉ là 15 - 20% (theo các báo cáo của các bệnh viện lớn). Phần còn lại đến viện đã ở giai đoạn không sớm, khiến cho việc điều trị rất phức tạp mà kết quả vẫn rất hạn chế. VN Phát hiện “ung thư dạ dày sớm” chỉ có thể thực hiện được nhờ sự trợ giúp của nội soi dạ dày ống mềm. Những người có hội chứng dạ dày tá tràng, viêm dạ dày mãn tính, đau bụng mãn tính, nhất là khi có các yếu tố nguy cơ kể trên không được “tự động” điều trị khi chưa có kết luận của nội soi dạ dày tá tràng.  Hiện nay, các bệnh viện đa khoa tỉnh và nhiều trung tâm y tế huyện đã được trang bị hệ thống nội soi dạ dày ống mềm, tuy nhiên chất lượng chẩn đoán còn hạn chế. Vấn đề tập huấn nâng cao khả năng chuyên môn cho các bác sĩ nội soi cũng đã và đang được các bệnh viện tuyến trên quan tâm. . Nhà Nhận định tổn thương ung thư dạ dày giai đoạn sớm qua nội soi ống mềm không đơn giản, nhất là sinh thiết đúng tổn thương luôn yêu cầu các bác sĩ có kinh nghiệm. Nhiều trường hợp còn cần phải phối hợp với nội soi có nhuộm màu niêm mạc dạ dày mới có thể sinh thiết đúng tổn thương...  Khi tổn thương đã rõ, trung bình bác sĩ nội soi cũng phải bấm sinh thiết 6 - 8 mảnh bệnh phẩm, khi tổn thương còn nghi ngờ phải bấm 10 - 12 mảnh mới đủ để kết luận CÓ ung thư không và ung thư giai đoạn mấy. Tuy nhiên, việc mô tả tổn thương của bác sĩ nội soi cũng vô cùng quan trọng. Tổn thương ung thư thường có bờ gồ cao, nham nhở, khi chạm dễ chảy máu, đáy ổ loét thường có chất hoại tử, xung quanh ổ loét là một vùng nhiễm cứng. Ở bệnh nhân Việt Nam, ổ loét thường gặp ở vùng 1/3 dưới (vùng hang môn vị và bờ cong nhỏ dạ dày). Chỉ có khoảng 15 - 20% gặp 1/3 giữa và 1/3 trên của dạ dày - nơi mà Các bác sĩ nội soi phải có kinh nghiệm mới quan sát và sinh thiết được, đặc biệt là vùng nối dạ dày với thực quản.  Hiện nay, một số trung tâm y tế lớn của ta đã được trang bị máy nội soi ống mềm siêu âm. Với thiết bị này, ngoài việc quan sát được các tổn thương như trên, siêu âm cho phép quan sát được vùng bị tổn thương rộng bao nhiêu, đặc biệt sâu vào từng lớp của thành dạ dày. Cũng nhờ có siêu âm các hạch bạch huyết, các tạng xung quanh dạ dày như: tụy, gan, đại tràng... tế bào ung thư xâm nhập được quan sát. Vì thế, có thể qua nội soi siêu âm, người bác sĩ có thể xếp được giai đoạn của bệnh ung thư dạ dày.  Các giai đoạn của ung thư dạ dày Sau khi nội soi sinh thiết hoặc nội soi siêu âm sinh thiết mảnh bệnh phẩm được gửi đến các bác sĩ mô bệnh học xử lí qua các khâu chuyên biệt rồi làm thành các tiêu bản và nghiên cứu dưới kính hiển vi. Kết luận của mô bệnh học được coi là “tiêu chuẩn vàng”. Chỉ những bệnh nhân được “mô bệnh học” xác định là ung thư mới được coi là mắc bệnh ung thư.  Bệnh nhân được đánh giá toàn diện xem hạch bạch huyết xung quanh dạ dày, các tạng như: gan, tụy, đại tràng, phổi, não, xương có bị ung thư xâm lấn hay di căn không bằng các phương pháp như: siêu âm ổ bụng, CT Scanner, MRI... Dựa trên các dữ liệu đó người ta xếp ung thư dạ dày từ sớm nhất đến muộn nhất làm 5 giai đoạn: 0, I, II, III và IV theo bảng xếp giai đoạn của tổ chức chống ung thư quốc tế (UICC). Để đáp ứng yêu cầu “cá thể hóa” điều trị, người ta còn chia nhỏ thành các giai đoạn nhỏ hơn như: la, Ib; lla, IIb... Ứng với mỗi giai đoạn đó có một phác đồ điều trị riêng.  Hiện nay có nhiều bảng phân giai đoạn cùng tồn tại và cùng được ứng dụng. Trên lâm sàng, bảng xếp giai đoạn của Dukes cải tiến được ứng dụng nhiều ở Việt Nam. Theo bảng phân loại này, ung thư dạ dày có 4 giai đoạn A, B, C, D. Giai đoạn A khi tế bào ung thư xâm lấn lớp niêm mạc hoặc đã đến lớp dưới niêm mạc, giai đoạn B khi xâm lấn đến lớp thanh mạc nhưng chưa có di căn hạch. Giai đoạn C không cân xem xét ung thư xâm lấn đến lớp nào nhưng đã có hạch di căn. Giai đoạn D cũng không cần xem xét ung thư xâm lên đến đâu, có di căn hạch chưa, nhưng đã có di căn xa (gan, phổi, xương, não) một ổ hay nhiều ổ.  
Những yếu tố dẫn đến ung thư dạ dày

Những yếu tố dẫn đến ung thư dạ dày

Những yếu tố nguy cơ ngoại sinh  Chế độ ăn uống   Các yếu tố nguy cơ ngoại sinh đầu tiên người ta nói là chế độ ăn uống. Chế độ ăn nhiều muối (ăn mặn, ăn trên 5gr muối/ngày) không chỉ có tác hại với tim mạch mà ăn mặn còn làm tan các chất nhầy phủ trên niêm mạc dạ dày làm cho các chất độc, các chất có khả năng gây ung thư có trong thức ăn tiếp xúc trực tiếp với các tế bào niêm mạc gây tổn thương các tế bào đó. Chế độ ăn thiếu rau xanh, hoa quả tươi, các Vitamin C, A, E... cũng là những yếu tố thuận lợi cho ung thư dạ dày.  Yếu tố nhiễm trùng Yếu tố nhiễm trùng: Xoắn khuẩn HP (Helicobacter Pylory) được xem là yếu tố nguy cơ lớn nhất của ung thư dạ dày đặc biệt là ung thư dạ dày 1/3 dưới tức là ung thư vùng hang môn vị, loại ung thư thường gặp nhất ở Việt Nam. Có lẽ xoắn khuẩn HP là loại vi trùng duy nhất sống được trong môi trường dạ dày nơi có đậm độ a-xít HCl rất cao với pH lúc đói đạt tới 2,5. Người ta đã nghiên cứu và thấy rằng HP chui sâu vào lớp nhầy của niêm mạc dạ dày đồng thời tiết ra các chất làm trung hòa a-xít HCl cũng như làm tan chất nhầy. Qua đó HCI, Pepsin và các men của HP cũng như các chất gây ung thư tiếp xúc trực tiếp với các tế bào lớp niêm mạc dạ dày gây tổn thương chúng.  Viêm teo niêm mạc, viêm niêm mạc di sản týp ruột là những tổn thương điển hình của niêm mạc dạ dày do HP gây nên. Một số tác giả coi viêm niêm mạc dạ dày di sản týp ruột là tiền ung thư. Tỉ lệ nhiễm HP ở các nước đang phát triển, như Việt Nam chẳng hạn, tăng dần theo tuổi, từ 60 tuổi trở lên có tới 85% dân số nhiễm HP.  HP có rất nhiều chủng loại khác nhau nhưng chúng mang gien CagA có khả năng gây bệnh cao nhất và chúng chiếm tỉ lệ không lớn trong gia đình nhà HP. Tỉ lệ nhiễm HP các nước phát triển rất thấp chỉ từ 0 - 5%. HP được lây truyền trực tiếp qua đường tiêu hóa bởi thức ăn, tay nhiễm dạ dày ở các nước  Âu - Mỹ có liên quan đến phương pháp bảo quản thịt, cá từ ướp muối sang tủ lạnh; các dân tộc có thói quen ăn dưa muối, cà muối...  Một số nơi có thói quen ăn thịt rán, thậm chí rán nhiều lần, dùng dầu mỡ đã cháy rán lại. Dân ở những vùng này có tỉ lệ ung thư cao hơn dân cư các vùng khác, nhất là ung thư dạ dày. Nhiệt độ cao có thể biến các chất không gây ung thư thành các chất gây ung thư, ngay cả dầu rán và mỡ.  Vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm ở các nước đang phát triển ngay như Việt Nam là một vấn nạn. Thực phẩm còn dư lượng cao các chất thuốc trừ sâu, kích thích tăng trưởng, tăng trọng, nhất là thuốc bảo quản thực phẩm... không chỉ gây ngộ độc thực phẩm ngay trước mắt mà về lâu dài rất nhiều khả năng gây ung thư cho người dùng thường xuyên với liều không gây nhiễm độc cấp.  Hút thuốc lá ​ Hút thuốc lá không chỉ liên quan đến ung thư phổi mà còn liên quan đến rất nhiều loại ung thư khác nhau, trong đó có ung thư dạ dày. Hút thuốc lá và béo phì làm tăng tỉ lệ ung thư 1/3 trên dạ dày đã được ghi nhận ở các nước phát triển. Trong những năm gần đây, số liệu nghiên cứu của các bệnh viện ở Việt Nam cho thấy, tỉ lệ ung thư 1/3 trên da dày tăng lên. Tỉ lệ người hút thuốc lá ở nước ta cao vào hàng nhất nhì thế giới và không có dấu hiệu giảm, thậm chí giới trẻ có xu hướng tăng. Vai trò của hút thuốc thụ động không khác, thậm chí còn nguy hiểm hơn. Hút thuốc lá chủ động và bị hút thuốc chủ động. 8 động làm tăng khả năng đá Không có loại thuốc lá 8 UT dạ dày và rất nhiều loại UT 8 nào mà không độc hại & khác. kể cả thuốc lá điện tử! Những yếu tố nội sinh Vai trò của các yếu tố nội sinh chỉ chiếm giữ khoảng 20% trong các yếu tố nguy cơ mắc ung thư nói chung và Với ung thư dạ dày nói riêng. Nhưng phải hiểu là yếu tố nội sinh giữ vai trò quyết định. Trong các trường hợp yếu tố ngoại sinh tác động với cường độ mạnh, thời gian tác động dài nhưng nếu các yếu tố nội sinh không song hành thì bệnh sẽ không xuất hiện. Ngược lại, khi đã có các yếu tố nội sinh thì dù các yếu tố ngoại sinh tác động không mạnh lắm, thời gian có thể không dài lắm, bệnh vẫn xuất hiện!  Yếu tố gen di truyền Yếu tố gen di truyền: Cho đến nay vẫn không có chứng minh nào khẳng định có gien di truyền ung thư dạ dày. Tuy nhiên, yếu tố gia đình được nhắc tới như là một yếu tố nguy cơ nội sinh. Tùy theo báo cáo, Có từ 1 - 3% ung thư dạ dày có liên quan đến yếu tố gia đình. Một khái niệm được thừa nhận đó là, những người được thừa hưởng một hệ thống gien dễ bị tổn thương” từ gia đình sẽ có tỉ lệ ung thư cao hơn. Những người này không cần những yếu tố ngoại sinh tác động quá mạnh và quá dài vẫn có thể xuất hiện bệnh. Điều này được gợi ý bởi chủng tộc khác nhau có tỉ lệ mắc bệnh khác nhau, cùng có điều kiện sống như nhau nhưng có người mắc ung thư, có người không. Người Mỹ da màu có tỉ lệ ung thư cao hơn người Mỹ da trắng. Và nam giới luôn có tỉ lệ mắc cao hơn nữ giới từ 1,5 - 2 lần.  Những người đã có tiền sử cắt đoạn dạ dày vì bệnh lành tính thời gian càng dài khả năng mắc ung thư dạ dày phân Còn lại càng cao. Sau 10 năm gấp 1,5 lần người bình thường, cứ thêm 5 năm khả năng ung thư tăng thêm 0,5 lần nữa.  Các đột biến gen Những người trong gia đình có người hoặc bản thân bị bệnh đa polyp gia đình có khả năng ung thư dạ dày. Những bệnh nhân này có đột biến gien APC. Các đột biến gien nói chung là cội nguồn của mọi bệnh ung thư mà ung thư dạ dày không phải ngoại lệ. Đột biến gien CDH1, gien P53, P73... đang thu hút các nhà nghiên cứu nhằm phòng bệnh, điều trị bệnh ung thư dạ dày trong tương lai. | Như vậy có thể hiểu rằng, các yếu tố ngoại sinh tác động vào hệ thống gien và gây đột biến, nếu hệ thống gien bền vững hoặc sửa chữa kịp thời các đột biến đó thì bệnh không xuất hiện. Nếu cắt kịp thời những tác động của các yếu tố ngoại sinh trước khi đột biến không sửa chữa được xảy ra thì bệnh cũng không xuất hiện. Điều đó cũng có nghĩa là có rất nhiều đột biến đã được sửa chữa kịp thời. Thời gian từ khi có đột biến đến đột biến không sửa chữa được có thể kéo dài hàng nhiều năm. Và từ khi đột biến không sửa chữa được đến khi bệnh biểu hiện kéo dài 10 - 15 năm và gọi là thời kỳ “tiền lâm sàng”. Vì vậy, bệnh thường được chẩn đoán ở tuổi từ 40 trở lên và đỉnh cao thường gặp ở khoảng tuổi 50 - 65. Nếu được phát hiện thời điểm này, bệnh ung thư dạ dày được chữa khỏi hoàn toàn với các biện pháp rất đơn giản và không hề tốn kém. 
Tìm hiểu chung về ung thư dạ dày

Tìm hiểu chung về ung thư dạ dày

Tầm quan trọng của dạ dày Dạ dày là đoạn phình to nhất của ống tiêu hóa. Dạ dày nối thông phía trên với thực quản, phía dưới với ruột non qua hành tá tràng và tá tràng. Nghĩa là thức ăn từ miệng qua thực quản rồi xuống dạ dày. Tại dạ dày, thức ăn được tiêu hóa cả bằng cơ học và bằng các chất men do dạ dày tiết ra như: axít HCl (a-xít Chlohydric), Pepsin (men tiêu đạm)...  Dạ dày nhào trộn thức ăn như một cái “máy xay sinh tố”, thức ăn chuyển dạng thành dưỡng chấp, khi đó thức ăn mới chuyển xuống hành tá tràng, tá tràng rồi mới xuống ruột non. Như vậy, dạ dày vừa là nơi lưu trữ và là nơi tiêu hóa thức ăn. đ Dạ dày ngăn cách với thực quản phía trên bởi cơ tâm vị và phía dưới với hành tá tràng bởi cơ môn vị. Cả về hình thể cũng như chức năng dạ dày được chia làm 3 phần: 1/3 trên, 1/3 giữa và 1/3 dưới.  Dạ dày nằm hoàn toàn trong ổ bụng. Nếu dùng hai đường thẳng vuông góc với nhau tại rốn, một đường thẳng từ mũi ức xuống và một đường ngang qua cơ thể chia bụng làm 4 phần: 1/4 trên phải, trên trái, dưới phải và dưới trái. Dạ dày chủ yếu nằm ở 1/4 trên trái, hành tá tràng và tá trang năm ở 1/4 trên phải. Vùng giữa 1/4 trên phải và 1/4 trên trái gọi là vùng thượng vị.  Ung thư dạ dày  Thành dạ dày được cấu tạo bởi 5 lớp: lớp niêm mạc, lớp dưới niêm mạc, lớp cơ (gồm lớp cơ vòng và lớp cơ dọc) lớp dưới thanh mạc và lớp thanh mạc. Ung thư dạ dày có thể xuất phát từ bất kỳ lớp nào của thành dạ dày. Tùy thuộc ung thư xuất phát từ lớp nào mà ung thư có các biểu hiện lâm sàng khác Trong khuôn khổ bài này, chúng ta chỉ tìm hiểu ung thư dạ dày xuất phát từ lớp niêm mạc dạ dày, vì trên 95% ung thư dạ dày nói chung xuất phát từ lớp này. Và khi nói đến ung thư dạ dày, người ta nghĩ ngay đến loại ung thư này. và Niêm mạc dạ dày là lớp phủ toàn bộ mặt trong của dạ dày. Các tế bào của lớp này có chức năng chế tiết các chất nhầy, các chất men tiêu hóa như: HCl, Pepsin... và được gọi chung là tế bào biểu mô tuyến. Khi ung thư xuất phát từ đây được gọi là ung thư biểu mô tuyến dạ dày hay ung thư dạ dày.  Tế bào lớp niêm mạc dạ dày được phủ bởi một lớp nhầy chắc chắn để không bị tổn thương do thức ăn hoặc các chất Có pH hoặc quá kiềm hoặc quá a-xít do ta ăn vào gây nên. Có một số yếu tố nguy cơ có thể làm tan chất nhầy này, làm mất khả năng bảo vệ lớp tế bào niêm mạc. Lớp nhầy này bị tổn thương dẫn đến lớp tế bào niêm mạc bị tổn thương, đây là sự khởi đầu của nhiều loại bệnh lý của dạ dày nói chung trong đó có ung thư dạ dày. Tình hình mắc ung thư dạ dày ở Việt Nam và trên thế giới Theo tổ chức ghi nhận ung thư toàn cầu, ung thư dạ dày có xu hướng giảm rõ rệt ở Bắc Mỹ và Tây Âu nhưng vẫn gia tăng ở các nước đang phát triển. Tại Hoa Kỳ, năm 2013 có 21.000 trường hợp mới được chẩn đoán và 10.990 người chết vì bệnh này. Nó được xếp vào hàng thứ 4, thứ 5 trong 10 bệnh ung thư thường gặp vào những năm sau thế chiến thứ 2, nhưng hiện nay nó chỉ xếp hàng thứ 16, 17 trong 20 ung thư thường gặp ở Mỹ. Ở các nước châu  u và các nước phát triển khác ngoại trừ Nhật Bản, ung thư dạ dày không nằm trong số 10 bệnh ung thư thường gặp. Đối với phần còn lại của thế giới, ung thư dạ dày vẫn đứng hàng thứ 2, 3 sau ung thư phổi hoặc ung thư gan. Nhật Bản là quốc gia có tỉ lệ mắc ung thư dạ dày cao nhất thế giới nhưng tỉ lệ tử vong được cải thiện tốt nhất trong những năm gần đây. Tỉ lệ mắc cao sau Nhật Bản là Trung Quốc, Hàn Quốc, Việt Nam,... Cũng theo ghi nhận của tổ chức ung thư toàn cầu, Việt Nam có trên 16.000 trường hợp mới được chẩn đoán và trên 11.000 trường hợp tử vong vì ung thư dạ dày vào năm 2013. Ung thư dạ dày đứng hàng thứ 2 ở nam giới, sau ung thư phổi và thứ 5 ở nữ giới sau ung thư vú, cổ tử cung, phổi, gan, đại trực tràng. Các nước khác nhau có tỉ lệ mắc ung thư dạ dày khác nhau, nhưng các chủng người khác nhau, dân ở các vùng địa lí khác nhau trong cùng một nước cũng có tỉ lệ mắc bệnh khác nhau. Điều đó gợi ý vai trò nhân chủng học, tập quán sống và yếu tố môi trường đóng vai trò quan trọng trong nguyên sinh bệnh học của ung thư dạ dày. Cho đến nay, giới nghiên cứu vẫn chưa biết chắc chắn nguyên nhân gây ung thư dạ dày nên người ta chỉ nói đến các yếu tố nguy cơ.   
Điều trị và phòng tránh ung thư phổi

Điều trị và phòng tránh ung thư phổi

Việc điều trị ung thư phổi dựa vào thể trạng hình nhân, loại mô bệnh học, giai đoạn bệnh. Điều trị ung thư phổi bao gồm các phương pháp: phẫu thuật, xạ trị, hóa chất. Có thể điều trị đơn thuần 1 phương pháp hoặc có thể kết hợp nhiều phương pháp với nhau.  Điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ  Phẫu thuật: Chỉ định: giai đoạn 1, I, II, IIIA. Phương pháp phẫu thuật  Cắt thùy phổi kèm theo vét hạch rốn thùy, áp dụng với ung thư phế quản ngoại vi.  Cắt lá phổi kèm theo vét hạch rốn phổi và trung thất, CÓ thể cắt một phần màng tim, thành ngực. Thường áp dụng với ung thư ở phế quản gốc, cạnh carina và hoặc xâm lấn cực phế quản thùy trên.  Phẫu thuật cắt phân thùy trong trường hợp khối u nhỏ, nằm ngoại vi và chức năng hô hấp còn hạn chế. Xạ trị: Chỉ định Xạ trị tiền phẫu: cho giai đoạn IIIB, kích thước u quá lớn để xét khả năng phẫu thuật sau đó. Xạ trị hậu phẫu: cho giai đoạn II, IIIA và các trường hợp phẫu thuật cắt bỏ không hoàn toàn để lại tổ chức ung thư sau phẫu thuật. Xạ trị đơn thuần triệt căn: cho giai đoạn I, II, IIIA có chông chỉ định hoặc bệnh nhân từ chối phẫu thuật, hóa chất. Xạ trị triệu chứng: xạ trị giảm đau, xạ trị toàn não, xạ trị chống chèn ép. Hóa trị: Chỉ định Giai đoạn IV, IIIB, IIIA. Giai đoạn IB, IIA cần được cân nhắc. Các trường hợp chống chỉ định hoặc bệnh nhân từ chối phẫu thuật, tia xạ. B Mục đích: hoá chất bổ trợ; hoặc hoá chất phối hợp với xa trị; hoặc hoá chất trong giai đoạn cuối. Chia làm 2 nhóm lớn: hoá chất cổ điển, ví dụ như nhóm taxans; muối platium; vinorebine; gemcitabine... Hoá chất điều trị đích trong bước 1; bước 2, điều trị duy trì như gefitinib hoặc erotinib... Điều trị ung thư phổi tế bào nhỏ Đối với ung thư phổi tế bào nhỏ điều trị bao gồm 2 phương pháp: hóa - xạ trị đồng thời cho giai đoạn khu trú và hóa chất cho giai đoạn lan tỏa. Điều trị ung thư phổi di căn các vị trí thường gặp Di căn xương: xạ ngoài hoặc sử dụng các đồng vị phóng xạ hướng xương (Phospho-32, Strontium-89 hoặc Samarium-153). và Di căn não: xạ phẫu bằng dao gamma, Cyber knife... hoặc xạ trị toàn não bằng máy gia tốc. Tiên lượng Ung thư phổi là bệnh lý ác tính. Mặc dù đã có nhiều tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị, tuy nhiên tiên lượng vẫn còn dè dặt. Tiền sử bệnh tật, thể trạng, loại mô học ung thư phổi, giai đoạn, phương pháp và phản ứng với điều trị là các tác nhân đóng vai trò tiên lượng trong bệnh lý ác tính này.  Các cách phòng bệnh Không hút thuốc lá... Có chế độ dinh dưỡng, sinh hoạt, làm việc hợp lý...  Cần thăm khám sức khỏe định kì, đặc biệt khi có các triệu chứng ho kéo dài, đau ngực...  Ngoài ra, bổ sung thêm các thực phẩm chức năng hoặc thuốc để nâng cao sức đề kháng, tăng cường sức khỏe, hỗ trợ chức năng của phổi là điều rất cần thiết. Liên hệ với tiemthuoc.org để được tư vấn và hỗ trợ!  
Tổng quan và nguyên nhân mắc ung thư phổi

Tổng quan và nguyên nhân mắc ung thư phổi

Giới thiệu chung về ung thư phổi Ung thư phế quản hay ung thư phổi là bệnh lý ác tính phát triển từ biểu mô phế quản, tiểu phế quản, phế nang hoặc từ các tuyến của phế quản. | Ung thư nói chung hiện nay và ung thư phổi nói riêng tại Việt Nam đang gia tăng nhanh chóng. Theo kết quả nghiên cứu Globocon 2008: tại Việt Nam CÓ 20,66 nghìn người mới mắc (thứ 2 trong các bệnh ung thư) và 17,58 nghìn người chết (thứ 2 trong các bệnh ung thư). Bệnh gồm 2 nhóm khác nhau về điều trị và tiên lượng bệnh: Ung thư phổi tế bào nhỏ chiếm 15 - 20% và ung thư phối không phải tế bào nhỏ chiếm 80 - 85%.  Biểu hiện lâm sàng bệnh đa dạng, không đặc hiệu như: họ, tức ngực, khó thở... Chẩn đoán xác định dựa vào mô bệnh học (xét nghiệm tổ chức u). Tuy nhiên, bệnh nhân thường đến khám ở giai đoạn muộn. Việc quyết định điều trị dựa vào thể trạng bệnh nhân, mô bệnh học, giai đoạn bệnh… Nguyên nhân mắc ung thư phổi Nguyên nhân dẫn đến ung thư phổi vẫn chưa rõ ràng, tuy nhiên, người ta tìm thấy những mối liên quan giữa các yếu tố sau đây đối với bệnh lý ác tính này:  Thuốc lá Thuốc lá là nguyên nhân hàng đầu gây ung thư phổi. Tỉ lệ ung thư phổi tăng lên theo mức độ tiêu thụ thuốc lá. Tỉ lệ ung thư phổi ở người nghiện thuốc lá cao hơn rất nhiều. Tỉ lệ ung thư phổi gia tăng theo số năm hút thuốc và số lượng thuốc hút mỗi ngày. 90% trường hợp ung thư phổi là ở người nghiện thuốc lá. Trong khói thuốc lá có hơn 40 chất có khả năng gây ung thư đó là các Hydrocarbure thơm đa vòng như: 3 - 4 Benzopyren, Dibenzanthracen; Polonium 40 và Sélénium trong giấy cuốn thuốc lá. Hút thuốc lá chủ động làm tăng nguy cơ bị ung thư phổi lên 13 lần. Tiếp xúc lâu dài với khói thuốc bị động cũng làm tăng nguy cơ.  Ô nhiễm không khí: do hơi đốt ở gia đình, xí nghiệp, hơi xả ra từ các động cơ. Nghề nghiệp: công nhân làm việc ở một số mỏ có nguy cơ ung thư phổi cao hơn như: mỏ phóng xạ uranium, mỏ kên, mỏ cromate; công nhân làm việc trong một số ngành nghề có tiếp xúc amiant, công nghiệp hóa dầu, công nghiệp nhựa, khí đốt. Di truyền: chưa được chứng minh, nhưng có thể có yếu tố gia đình liên quan đến một số đột biến gien.  Các bệnh ở phế quản phổi: Sẹo cũ của các tổn thương phổi, lao phổi cũ: nhiều trường hợp ung thư phổi phát triển trên sẹo lao phổi cũ đã được phát hiện.  Một số yếu tố khác  Giới: nam giới mắc ung thư phổi nhiều hơn nữ giới, tuy nhiên điều này có lẽ do nam giới hút thuốc nhiều hơn nữ. Ở những nước có tỉ lệ nữ hút thuốc tăng, người ta cũng nhận thấy tỉ lệ ung thư phổi ở nữ gia tăng theo.  Tuổi: thường gặp nhiều nhất ở tuổi 40 - 60 tuổi, dưới 40 tuổi ít gặp và trên 70 tuổi tỉ lệ cũng thấp.  Địa dư: ở các nước công nghiệp phát triển, ung thư nhổi rất thường gặp, ở thành thị bị nhiều gấp 5 lần ở nông thôn.  Nắm rõ được các nguyên nhân gây bệnh ung thư phổi có tác dụng lớn trong phòng tránh và điều trị bệnh. Muốn tham khảo các dòng thuốc hỗ trợ điều trị ung thư cũng như nâng cao sức đề kháng, vui lòng liên hệ với tiemthuoc.org để được tư vấn, hỗ trợ!
Gọi Tư Vấn Miễn Phí Chat nhanh đặt hàng Chat với Dược Sĩ