Các hình thức xạ trị

Mục tiêu của xạ trị là tiêu diệt tế bào bệnh (tế bào cường năng, tế bào ung thư và di căn) mà vẫn đảm bảo không gây hại cho toàn cơ thể và các mô tạng lành xung quanh, cho môi trường và những người xung quanh. Hiện nay, có nhiều phương thức điều trị ung thư như: phẫu thuật, dùng thuốc hóa chất, xạ trị và các kỹ thuật sinh học khác.
Xạ trị đóng một vai trò rất quan trọng trong điều trị bệnh nhân ung thư. Tuy nhiên, xạ trị thường được kết hợp với các phương thức điều trị khác, trước, trong hoặc sau phẫu thuật, xạ trị đồng thời hoặc sau hóa trị để làm sao có hiệu quả nhất cho từng bệnh nhân. Công việc này đòi hỏi sự hiểu biết và kĩ năng của người thầy thuốc và kĩ thuật viên, sự phối hợp tốt giữa các kĩ sư vật lí và các nhân viên y tế. Trước hết, cần chọn đúng hình thức xạ trị, xác định chính xác liều lượng và tiến hành tốt các kĩ thuật trước, trong khi điều trị và theo dõi sau xạ trị.
Xạ trị có thể chia ra 3 hình thức sau đây:
- Xạ trị chiếu ngoài (Teletherapy): sử dụng các tia gamma CÓ khả năng xuyên sâu vào cơ thể. Trước đây có thể dùng các máy phát tia X nhưng về sau đã thay thế bằng nguồn Co-60 có năng lượng lớn hơn. Ngày nay, máy gia tốc thẳng (linac) đang dần thay thế các máy Co-60 vì có nhiều ưu điểm hơn.
- Xạ trị áp sát (Brachytherapy): Có thể dùng các nguồn phóng xạ kín phát ra các tia gamma yếu (Co-60, Ir-192, I-125) hay các tia beta mạnh (của P-32). Các máy điều trị áp sát CÓ thể kể đến dao gamma dùng nguồn Co-60, cyberknife dùng chùm tia X... Các máy xạ trị áp sát trong điều trị ung thư cổ tử cung, vòm họng hoặc các hạt phóng xạ I-125 được cắm vào các mô ung thư ở tuyến tiền liệt, vú, gan... Gần đây đã sáng tạo ra kĩ thuật xạ trị trong mổ (intraoperative radiotherapy) sử dụng các detector nhỏ phát tia X yếu chiếu vào giường khối u sau khi đã cắt bỏ nó bằng phẫu thuật.
- Xạ trị chiếu trong: dùng các thuốc px nguồn hở phát ra các tia alpha và beta mạnh đưa vào cơ thể bằng cách uống, tiêm. Đa số các thuốc đó là các nguyên tố đặc hiệu (ví dụ, iod đối Với tuyến giáp; P và Sr đối với xương khớp...) hay các thuốc | px là các hợp chất vô cơ, hữu cơ gắn các hạt nhân px phát tia alpha, beta. Các hợp chất hóa học được hấp thu, lưu giữ hoặc đào thải ở các mô tạng đích theo các hoạt động chức năng sinh lí và bệnh lí của chúng. Vì vậy, các thuốc px vào tận các tế bào bệnh và lưu giữ ở đó mà không thâm nhập hoặc thâm nhập rất ít vào các tế bào lành và toàn cơ thể. Các hạt nhân px ở các thuốc đó phát ra các bức xạ tại chỗ gây tác dụng trị bệnh trong khối u hay mô tạng đích mà không đi quá xa đến các tế bào hay mô tạng lành xung quanh. Liều lượng thuốc được tính toán thích hợp dựa theo hoạt độ px, khả năng hấp thu và lưu giữ tại mô địch, đặc điểm vật lí của hạt nhân px và của bệnh, người bệnh để đảm bảo hiệu quả điều trị, ít biến chứng và tuyệt đối an toàn cho bệnh nhân, môi trường và nhân viên y tế cũng như gia đình, cộng đồng xung quanh.
Các loại tia bức xạ điều trị ung thư
Nhiều loại ung thư sớm có di căn vào xương. Triệu chứng thường gặp nhất của di căn vào xương là đau đớn. Đau xương do di căn làm giảm chất lượng sống của bệnh nhân mà các thuốc chống đau thông thường lại không còn tác dụng. Dùng thuốc px nguồn hở lúc này phát huy vai trò to lớn của nó. Các bức xạ ion hóa tác dụng tại chỗ vào các ổ di căn ở xương, các đầu dây thần kinh tận cùng ở đây và theo nhiều cơ chế phức tạp khác có thể giảm được triệu chứng đau rất rõ và cải thiện đáng kể chất lượng sống cho bệnh nhân. Điều trị bằng các thuốc px triệu chứng giảm đau Có thể giảm rõ rệt sau vài tuần và kéo dài trong nhiều tháng. Trong thực tế, kĩ thuật này giúp ích nhiều cho bệnh nhân và giảm khó khăn cho người thầy thuốc điều trị trước sự đau đớn, khổ sở của bệnh nhân mà không còn phương cách nào nữa. | Điều trị biến chứng tràn dịch màng bụng, màng phổi do di căn.
- Nhiều loại ung thư các mô tạng trong lồng ngực hay ổ bụng có thể gây nên tràn dịch ở ổ bụng và lồng ngực do di căn. Tràn dịch gây nên khó thở hoặc nặng nề, khó chịu cho bệnh nhân. Đây cũng là một biến chứng muộn của di căn ina thu. Hơn thế nữa, do bệnh nhân có thể bị tiêu hao nhiều chất dinh dưỡng vào dịch nên bệnh nhân bị suy kiệt, sức đề kháng giảm nhanh rõ rệt.
Ung thư tế bào gan (nguyên phát HCC) hay những ổ khu trú do di căn đến gan từ các loại ung thư khác không có chỉ định mổ cắt bỏ được nữa có thể áp dụng nhiều kĩ thuật điều trị khác nhau để tiêu diệt khối u. Mặc dù có nhiều kĩ thuật như vậy nhưng nhiều khi vẫn không đạt được kết quả mong muốn. Từ đó xuất hiện kĩ thuật y học hạt nhân kết hợp với thông động mạch của chuyên ngành X-quang. Có nhiều hạt nhân px có thể sử dụng để điều trị ung thư gan như: I-131, Au-98, Re-188 và gần đây nhất là Y-90.
Năng lượng tia beta của Y-90 rất lớn và có nhiều ưu điểm trong tiêu diệt tế bào bệnh và làm được xạ hình bức xạ hãm nên đã trở thành một kĩ thuật tiên tiến với kết quả tốt hơn các thuốc px khác. Gần đây, Bệnh viện Quân y 108 và Bệnh viện Bạch Mai đã áp dụng kĩ thuật này trong điều trị cho bệnh nhân và mở ra một hướng mới cho điều trị ung thư gan tại nước ta.
Điều trị phóng xạ miễn dịch

Điều trị phóng xạ miễn dịch (Radio immunotherapy): là một kĩ thuật hiện đại trong điều trị ung thư, Chúng ta biết, hầu hết các tế bào ung thư đều sản sinh ra những chất đặc biệt có tính kháng nguyên (antigen) hoặc thể thụ cảm (receptor) đặc hiệu cho tế bào ung thư đó. Kháng nguyên này có khả năng gắn kết với các kháng thể (antibody) đặc hiệu cho riêng nó. Từ đó nảy sinh ý tưởng là gắn các hạt nhân px phát beta hoặc alpha với các kháng thể đơn dòng và đưa chúng vào cơ thể bệnh nhân ung thư. Các kháng thể mang hạt nhân px đó sẽ tự tìm đến và gắn kết với các kháng nguyên (hay receptor) tại các tế bào ung thư nên tiêu diệt chúng. Đây là kĩ thuật mới, Có nhiều triển vọng vì đang phát triển mạnh ở các nước tiên tiên. Ở nước ta gần đây cũng đã có những nghiên cứu sản xuất các kháng thể gắn với I-131 hay Y-90 để điều trị bệnh ung thư tế bào lympho hay ung thư vùng vòm họng. Công việc có thể được phát triển và mở rộng sẽ mang lại thêm cơ hội điều trị hiệu quả hơn cho các loại ung thư.
An toàn phóng xạ trong sử dụng bức xạ ion hóa trong y tế

Đảm bảo an toàn phóng xạ bằng cách che chắn tốt và tuân thủ nghiêm ngặt về quy trình kĩ thuật và liều lượng
Công tác an toàn bức xạ là đảm bảo cho bất cứ cá nhân nào (bệnh nhân, nhân viên y tế, dân chúng) không bị quá liều cho phép theo quy định của pháp luật. Các quy định nghiêm ngặt trong khi sử dụng bức xạ cũng nhằm mục đích để không gây ô nhiễm môi trường. Trong y tế, liều lượng lớn thường được dùng là trong xạ trị chiếu ngoài hoặc áp sát. Các nguồn xạ đó được nằm trong thiết bị che chắn, bảo vệ chắc chắn hay bằng các máy chỉ phát tia khi bật mở.
Con người làm chủ hoàn toàn được kĩ thuật chiếu xạ, chú ý che chắn tốt và tuân thủ nghiêm ngặt về quy trình kĩ thuật và kiểm soát chặt chẽ liều lượng. Do đó, tai biến do quá liều và sự cố xảy ra từ xưa đến nay rất hãn hữu. Xạ trị chiếu trong tức là dùng nguồn px hở với liều lượng được dùng rất nhỏ, không gây nên bất cứ tác hại nào cho cơ thể.
Như vậy, y học muốn phát triển và ngành y tế muốn làm tốt công tác khám chữa bệnh nói chung, ung thư nói riêng không thể không sử dụng bức xạ ion hóa. Lần đầu tiên con người đã đưa bức xạ vào chẩn đoán và điều trị bệnh từ cuối thế kỉ thứ 19 và phát triển rất nhanh.
Việc sử dụng tia px luôn luôn kèm theo thực hiện nghiêm khắc các biện pháp đảm bảo an toàn, ghi đo chính xác, liều lượng thích hợp, được kiểm soát nên trên thực tế hầu như không xảy ra tai biến cho bệnh nhân. Trong ung thư, bức xạ ion hóa là một kĩ thuật không thể thiếu được trong chẩn đoán và rất cần thiết trong điều trị, nhất là khi bệnh nhân không mở được hoặc không thể điều trị được bằng hóa chất hoặc các phương thức điều trị khác không mang lại kết quả mong muốn.
Sự hiểu biết về vai trò của bức xạ ion cũng cần thiết cho bệnh nhân để họ bình tĩnh hợp tác, giúp đỡ cho nhân viên y tế tiến hành công việc được thuận lợi nhằm mang lại hiệu quả tối đa và an toàn cho mọi người và môi trường.